Công bố kết quả nghiên cứu về "Các nhân tố ảnh hưởng đến việc người lao động Việt Nam sau khi hết hạn hợp đồng lao động tại Hàn Quốc không về nước, ở lại và làm việc không có giấy tờ hợp pháp"

Kết quả nghiên cứu về “Các nhân tố ảnh hưởng đến việc người lao động Việt Nam sau khi hết hạn hợp đồng lao động tại Hàn Quốc không về nước, ở lại và làm việc không có giấy tờ hợp pháp” vừa được Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội chính thức công bố ngày 16/7/2013, tại Hà Nội. Thứ trưởng Bộ Lao động – TBXH Nguyễn Thanh Hòa chủ trì buổi hội thảo.

Nghiên cứu này được thực hiện từ tháng 11/2012 – 5/2013, khảo sát 243 người lao động (trong đó có 100 Lao động hợp pháp đang làm việc ở Hàn Quốc, 98 lao động hợp pháp đã về nước và 45 lao động không có giấy tờ hợp pháp đã về nước). Đây là một trong những hoạt động, nỗ lực của Chính phủ Việt Nam trong phân tích tình hình và tìm kiếm những biện pháp thích hợp để hạn chế và ngăn ngừa tình trạng người lao động (NLĐ) Việt Nam ở lại cư trú và làm việc không có giấy tờ hợp pháp ở Hàn Quốc. Nghiên cứu này do Tổ chức Lao động Quốc tế hỗ trợ về kỹ thuật và tài chính.

Phát biểu khai mạc hội thảo, Thứ trưởng Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội Nguyễn Thanh Hòa cho biết, qua 9 năm hợp tác (từ tháng 6/2004), khi Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội Việt Nam ký bản ghi nhớ với Bộ Lao động và Việc làm Hàn Quốc về việc đưa lao động Việt Nam sang Hàn Quốc làm việc theo Chương trình cấp phép việc làm cho lao động nước ngoài (EPS), đến nay, Việt Nam đã đưa được trên 63.000 lao động sang Hàn Quốc làm việc. Người lao động đi làm việc ở Hàn Quốc có thu nhập cao hơn trong nước, vì vậy đời sống của một số bộ phận người lao động và gia đình họ được cải thiện. Đối với Hàn Quốc, chương trình đã góp phần bổ sung nguồn nhân lực cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ, đóng góp cho sự phát triển kinh tế Hàn Quốc. Đồng thời, thông qua chương trình đã tăng cường tình hữu nghị và hiểu biết lẫn nhau giữa nhân dân hai nước. Tuy nhiên, có một vấn đề đang nổi lên cần cả hai bên phải nghiên cứu giải quyết là tình trạng nhiều lao động Việt Nam sau khi hết hạn hợp đồng không về nước, ở lại làm việc, cư trú bất hợp pháp tại Hàn Quốc.

thu-truong-bo-lao-dong-TBXH Nguyen-Thanh-Hoa-phat-bieu-khai-mac-hoi-thao
Thứ trưởng Bộ Lao động-TBXH Nguyễn Thanh Hòa phát biểu khai mạc hội thảo.

TS. Nguyễn Thị Lan Hương, Viện trưởng Viện Khoa học Lao động và Xã hội, cho biết: Kết quả nghiên cứu và phỏng vấn sâu các đối tác Việt Nam và Hàn Quốc đã chỉ ra rằng có 4 nhóm nhân tố chính đã ảnh hưởng đến việc lao động Việt Nam hết hạn hợp đồng lao động không về nước, ở lại cư trú và làm việc không có giấy tờ hợp pháp ở Hàn Quốc.

Ba-Nguyen-Thi-Lan-Huong-Vien truong-vien-khoa-hoc-Lao-dong-va-xa-hoi
Bà Nguyễn Thị Lan Hương - Viện trưởng Viện Khoa học Lao động và Xã hội.

Trước hết là, nhận thức và ý thức của nhiều người lao động Việt Nam rất hạn chế. Đây cũng là nhân tố ảnh hưởng tiêu cực nhất đến việc lao động Việt Nam hết hạn hợp đồng lao động không về nước, ở lại cư trú và làm việc không có giấy tờ hợp pháp.
Xuất phát từ động cơ kinh tế, hầu hết người lao động có mong muốn tiếp tục được làm việc ở Hàn Quốc sau khi kết thúc hợp đồng để có thêm thu nhập. Mặc dù đã có thời gian 4 năm 10 tháng hoặc 6 năm làm việc hợp pháp, số tiền mà mỗi người lao động gửi về gia đình là không nhỏ, ước khoảng từ 50 ngàn đến 70 ngàn đôla Mỹ, song do nhận thức và ý thức của nhiều người lao động còn hạn chế nên khi gần hết hợp đồng lao động họ sẵn sàng phá hợp đồng ra ngoài làm việc hay ở lại cư trú và làm việc không có giấy tờ hợp pháp sau khi hết hạn hợp đồng.

Nói chi tiết hơn về vấn đề vấn đề này, bà Nguyễn Lan Hương phân tích: Do chênh lệch thu nhập của việc làm ở Hàn Quốc và việc làm trong nước là rất lớn (từ 7 đến 10 lần, thậm chí còn cao hơn) nên nhiều người lao động vì cái lợi trước mắt đã tìm mọi cách để ở lại cư trú và làm việc không có giấy tờ hợp pháp sau khi hết hạn hợp đồng lao động ở Hàn Quốc. Bên cạnh đó, chi phí xuất cảnh cao cũng là lực giữ người lao động cư trú và làm việc không có giấy tờ hợp pháp ở Hàn Quốc. Một bộ phận người lao động đã phải chi phí rất cao (từ 80 – 200 triệu/người) cho việc làm thủ tục xuất cảnh, do thiếu hiểu biết nên bị lừa đảo hoặc đã cố tình mất tiền để không phải “vất vả” làm hồ sơ hay không phải “vất vả” học và thi tiếng Hàn. Do đó, ngay từ khi bước chân sang Hàn Quốc họ đã có ý định tìm cách ở lại Hàn Quốc lâu dài hay bỏ ra ngoài tìm kiếm việc làm có thu nhập cao để nhanh bù đắp lại khoản tiền đã chi.
“Ngoài những lý do trên, trình độ lao động đi làm việc ở nước ngoài của Việt Nam thấp, nhiều người chưa tốt nghiệp cấp 3 nên nhận thức pháp luật kém, tính vị kỷ cao nên sẵn sàng bỏ qua lợi ích tập thể để bỏ trốn hòng gỡ lại chi phí và kiếm thêm thu nhập”, bà Hương nói thêm.

Nhu cầu sử dụng lao động di cư không có giấy tờ hợp pháp của các chủ sử dụng lao động Hàn Quốc cũng là nhóm nguyên nhân dẫn đến tình trạng lao động Việt Nam ở lại. Quy trình tuyển dụng lao động nước ngoài ở Hàn Quốc còn quá chặt chẽ và mất nhiều thời gian, tốn kém hơn so với sử dụng lao động không có giấy tờ hợp pháp. Trong khi xử phạt về tài chính còn nhẹ, xử lý về hành chính còn chưa kiên quyết đối với chủ sử dụng lao động không có giấy tờ hợp pháp. Điều này đã dẫn đến tình trạng nhiều chủ sử dụng lao động Hàn Quốc vẫn tiếp tục sử dụng lao động không có giấy tờ hợp pháp, tạo điều kiện cho tình trạng lao động không có giấy tờ hợp pháp ngày càng ra tăng.

Nhóm nhân tố liên quan đến công tác tuyển dụng và quản lý lao động đi làm việc ở Hàn Quốc cũng là những nguyên nhân khiến lao động ở lại Hàn Quốc, cụ thể là thiếu các ràng buộc pháp lý giữa cơ quan phái cử lao động; công tác quản lý lao động của Việt Nam ở Hàn Quốc còn bất cập. Cùng với đó, sự phối hợp giữa các cơ quan chức năng của Việt Nam và Hàn Quốc chưa đặt ra cụ thể ngay từ đầu nên còn bất cập trong quản lý lao động chuyển việc; sự tham gia của chính quyền địa phương trong quản lý lao động đi làm việc ở nước ngoài còn hạn chế. Ngoài ra Việt Nam chưa xây dựng được cơ sở dữ liệu quản lý, chưa có hệ thống mã số để quản lý lao động nhằm theo dõi quá trình làm việc, chuyển việc ở nước ngoài…
Cuối cùng là nhóm các nhân tố liên quan đến môi trường và thể chế, chính sách và công tác quản lý lao động di cư của Hàn Quốc. Quan trọng nhất vẫn là việc thực thi chế tài xử phạt của Hàn Quốc chưa hiệu quả, chưa có tính chất răn đe đối với cả chủ sử dụng lao động và người lao động không có giấy tờ hợp pháp…

Xuat-khau-lao-dong

Để giảm thiểu và ngăn chặn tình trạng lao động Việt Nam cư trú và làm việc không có giấy tờ hợp pháp ở Hàn Quốc, nghiên cứu đã chỉ ra rằng phía Việt Nam, cần nâng cao chất lượng lao động đưa đi làm việc ở Hàn Quốc thông qua việc tuyển chọn những người lao động có nhân thân tốt (sau khi đạt yêu cầu qua kỳ kiểm tra tiếng Hàn). Theo Thứ trưởng Nguyễn Thanh Hòa, việc giáo dục ý thức tuân thủ pháp luật và hợp đồng lao động, kỷ luật lao động, tác phong công nghiệp, lợi ích cá nhân phải gắn liền với lợi ích chung của đất nước, của cộng đồng… muốn có hiệu quả thì cần phải thực hiện kiên trì và nghiêm túc trong một thời gian dài, không thể nóng vội một sớm một chiều.

Ngoài ra cần ký kết hợp đồng đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài giữa Trung tâm Lao động Ngoài nước và người lao động; xây dựng cơ chế bảo lãnh người lao động đi làm việc ở nước ngoài; ký quỹ đối với người lao động khuyến khích người lao động hết hạn hợp đồng lao động về nước đúng thời hạn; xử phạt nghiêm những người lao động ở lại quá hạn hợp đồng lao động.
Đồng tình với đề xuất này của nghiên cứu, ông Phạm Đỗ Nhật Tân, Phó Chủ tịch Hiệp hội Xuất khẩu lao động  cho rằng: “Tôi nói riêng với thị trường Hàn Quốc, chúng ta phải có ký hợp đồng, có người bảo lãnh, bồi thường khi vi phạm. Chúng ta cũng thiếu cơ chế xử phạt. Tôi cho rằng, phải đánh vào kinh tế trước thì từng bước chúng ta mới ngăn được lao động bỏ trốn”.

Về phía Hàn Quốc, bên cạnh việc nghiên cứu những giải pháp cần phải triển khai thì tăng cường công tác kiểm tra, giám sát các doanh nghiệp sử dụng lao động nước ngoài, kiên quyết xử lý các chủ sử dụng lao động không có giấy tờ hợp pháp là những giải pháp kiểm soát hiệu quả nhất để giảm động cơ thuê mướn lao động không có giấy tờ hợp pháp của các chủ sử dụng lao động nước này./.